Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để giải quyết tốt công việc giữa các cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, người dân.
Là
một nội dung của cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính phản ánh rõ
nhất mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Cải cách thủ tục hành chính cần tiền
đề là cải cách thể chế, sự song hành của cải cách công vụ và sự thúc đẩy của
hiện đại hóa nền hành chính. Bài viết phân tích một số nội dung nhằm tiếp tục
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để giải quyết tốt công việc giữa các cơ
quan hành chính nhà nước với tổ chức, người dân.
Ảnh
minh họa
Thủ tục hành chính và cải
cách thủ tục hành chính
Có nhiều cách tiếp cận về nền hành chính
nhà nước và về cấu trúc của nền hành chính nhà nước. Theo một số quan điểm hoặc
xuất phát từ những định hướng ưu tiên trong mỗi giai đoạn cải cách hành chính
(CCHC) mà thủ tục hành chính (TTHC) có thể được xem như một cấu phần độc lập
của nền hành chính thay vì là một nội dung của thể chế.
Cung cấp dịch vụ công là một trong những
chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước với mục đích đáp ứng lợi ích
chung, nhu cầu thiết yếu, các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức.
Trong số các loại dịch vụ công như: trong lĩnh vực sự nghiệp; trong lĩnh vực
công ích và trong lĩnh vực hành chính nhà nước thì nhóm cuối cùng - dịch vụ
hành chính công rất đáng quan tâm do gắn với thẩm quyền mang tính pháp lý của
các chủ thể quản lý nhà nước và đòi hỏi sự công khai, công bằng, thuận lợi
trong việc tiếp cận và sử dụng.
Là loại dịch vụ công đặc biệt, chỉ do cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện, dịch vụ hành chính công tập trung vào hoạt
động cấp các giấy xác nhận, chứng thực; cấp giấy đăng ký kinh doanh và chứng
chỉ hành nghề; cấp các loại giấy phép. Hệ quả của các loại giấy tờ nêu trên là
thừa nhận về mặt pháp lý quyền của các chủ thể trong lĩnh vực nhất định. Từ đó,
cải cách TTHC là nhiệm vụ luôn đặt ra với nền hành chính nhằm thiết lập sự an
toàn, tính minh bạch, dễ tiếp cận đối với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khi
thực hiện các dịch vụ công.
Cải cách TTHC có tác động rất lớn đối
với việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo tính minh bạch, loại bỏ
những rào cản và cắt giảm chi phí khi thực hiện; củng cố môi trường kinh doanh
và tăng chỉ số năng lực cạnh tranh. Theo Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước gia đoạn 2021-2030, cần cải cách quy định TTHC liên quan đến
người dân, doanh nghiệp, kể cả thủ tục nội bộ giữa cơ quan hành chính nhà nước;
đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thành phần hồ sơ, bãi bỏ các rào cản hạn chế
quyền tự do kinh doanh; tối ưu hóa quy trình giải quyết TTHC trên cơ sở ứng
dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin; đổi mới và nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế
một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC. Đẩy mạnh thực hiện TTHC trên
môi trường điện tử để người dân, doanh nghiệp có thể thực hiện dịch vụ mọi lúc,
mọi nơi, trên các phương tiện khác nhau.
Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021
của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2021-2030 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030: “100% thủ tục hành chính có yêu
cầu nghĩa vụ tài chính được triển khai thanh toán trực tuyến, trong số đó, tỷ
lệ giao dịch thanh toán trực tuyến đạt từ 50% trở lên. Tối thiểu 90% thủ tục
hành chính của các bộ, ngành, địa phương, có đủ điều kiện, được cung cấp trực
tuyến mức độ 3 và mức độ 4, đồng thời, hoàn thành việc tích hợp, cung cấp trên
Cổng Dịch vụ công quốc gia. Tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến mức độ 3 và mức
độ 4 trên tổng số hồ sơ đạt tối thiểu 80%... Môi trường kinh doanh của Việt Nam
được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu”(1). Công cuộc cải cách TTHC đặt ra các
giải pháp, nhiệm vụ đa dạng, đồng bộ, trong đó có việc xử lý một cách căn cơ
nguồn gốc xuất hiện các TTHC và tính công vụ trong thực hiện TTHC. Từ đó, nhận
diện rõ hơn mối quan hệ giữa cải cách TTHC với cải cách thể chế và chế độ công
vụ.
Cải cách quy định về thủ
tục hành chính
Theo nguyên tắc hiến định “Nhà nước được
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp
và pháp luật”, tính pháp quyền của nền hành chính được thể hiện trên cả hai
phương diện: công cụ, phương thức quản lý nhà nước và chế độ tuân thủ pháp luật
trong cơ chế vận hành. Theo tinh thần pháp quyền, quyền con người, quyền công
dân là vấn đề phải được quy định bằng văn bản dưới hình thức luật và chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng. Do đó, yêu cầu đối với TTHC mới ban hành là phải đơn giản, dễ hiểu,
dễ thực hiện.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đã xác định rõ nội dung của luật, nghị
định, thông tư. Theo đó, luật sẽ điều chỉnh về quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân mà theo Hiến pháp phải do luật định; việc hạn chế quyền
con người, quyền công dân (Điều 15); nghị định sẽ quy định những vấn đề theo ủy
quyền lập pháp, các biện pháp để thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân (Điều
19); Thông tư của Bộ trưởng ban hành theo ủy quyền lập pháp, lập quy hoặc để quy
định về biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước của bộ (Điều 24).
Thủ tục hành chính là trình tự, cách
thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ
chức. Xuất phát từ ý nghĩa, tác động của TTHC đến mối quan hệ giữa nhà nước và
xã hội, Điều 14 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 chỉ cho phép
bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương quy định TTHC
trong trường hợp được luật giao. Theo quy định này, các văn bản nêu trên chỉ
được quy định TTHC khi được giao trong luật, không phải được giao trong các văn
bản dưới luật và phải được giao trực tiếp trong luật, không phải suy luận từ
chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong
việc đánh giá nhu cầu ban hành, nội dung cũng như các tác động của TTHC, nhưng
kết quả chưa được như mong đợi, các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan ở Trung
ương chưa có nhiều cố gắng trong đơn giản hóa TTHC trong dịch vụ công trực
tuyến, nói theo văn bản pháp luật là tái cấu trúc quy trình để đưa vào sử dụng.
Nội dung văn bản quy phạm pháp luật là
vấn đề gắn với cơ chế điều chỉnh pháp luật. Thẩm quyền ban hành văn bản được
quyết định bởi mức độ quan trọng, sự ổn định và tính chất của quan hệ xã hội
cần điều chỉnh. Các văn bản có hiệu lực pháp lý cao thường được sử dụng để điều
chỉnh các quan hệ xã hội ổn định, đã bộc lộ rõ khuynh hướng vận động chủ yếu.
Những văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn thường được lựa chọn để điều chỉnh
quan hệ xã hội mới xuất hiện, chưa được kiểm nghiệm về sự ổn định. Hạn chế chủ
thể được đặt ra TTHC trong thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của địa
phương không chỉ được lý giải dưới góc độ cơ chế điều chỉnh pháp luật mà còn
được xem là biện pháp pháp lý nhằm góp phần tạo lập môi trường kinh doanh thông
thoáng, thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức, doanh
nghiệp.
Xu thế này đòi hỏi sự cẩn trọng ngay từ
bước soạn thảo luật khi quyết định giao cho các bộ quy định chi tiết điều khoản
kèm theo TTHC và công tác kiểm tra, giám sát văn bản quy phạm pháp luật. Cơ chế
kiểm soát ủy quyền lập pháp và lập pháp ủy quyền đã được lưu ý trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ban hành văn
bản pháp luật là quyền hiến định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tuy
nhiên, việc sử dụng khả năng ra chính sách cần đúng tinh thần của Hiến pháp và
phù hợp với phương châm, ưu tiên trong định hướng hoạt động của Chính phủ trong
từng giai đoạn.
Theo thống kê trong 05 năm qua, số lượng
thông tư chiếm hơn 68% tổng số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
Tính trung bình, mỗi luật có 6,8 nghị định, 1,8 quyết định của Thủ tướng, có
tới 25,8 thông tư và 1,9 thông tư liên tịch hướng dẫn. Số liệu thống kê này vừa
cho thấy số lượng rất nhiều của các thông tư và sức ảnh hưởng của thông tư đến
môi trường đầu tư, kinh doanh; song cũng có ý kiến nhận định rằng, hoạt động
cải cách thể chế có hiệu quả hay không một phần phụ thuộc vào chất lượng của
dạng văn bản này.
Chính phủ kiến tạo là Chính phủ tạo ra
những cơ hội, loại trừ những cản trở cho sự phát triển, áp dụng những biện pháp
được người dân, xã hội ủng hộ. Thực tế cho thấy, những khó khăn, cản trở mà cá
nhân, doanh nghiệp gặp phải khi triển khai nghị định qua thông tư, nhưng số
lượng không giảm dù Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã sửa đổi, bổ
sung nhiều lần. Hạn chế số lượng, nội dung thông tư là giải pháp cho một giai
đoạn nhất định. Cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Chính phủ trong hoạch định
chính sách như một cách thức kiến tạo cho sự phát triển và phân quyền một cách
minh bạch, phù hợp cho chính quyền địa phương để tránh sự can thiệp, hướng dẫn
không cần thiết từ phía các cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, cần lưu ý công tác
đánh giá tác động của TTHC, thể hiện ở việc nghiên cứu, xem xét về sự cần
thiết, tính hợp lý, hợp pháp cũng như tính các chi phí mà cá nhân, tổ chức phải
bỏ ra khi thực hiện TTHC dự kiến ban hành để cân nhắc, lựa chọn phương án, giải
pháp tối ưu cho việc ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung TTHC.
Về trách nhiệm công vụ
trong thực hiện thủ tục hành chính
Hoạt động hành chính có đặc trưng là gắn
với đời sống thường nhật của người dân và bao quát tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Vì vậy, cách nhìn nhận và đánh giá của cá nhân, tổ chức tập trung
vào cách thức giải quyết công việc, cung cấp dịch vụ công của đội ngũ công chức
thể hiện qua TTHC. Do đó, sự chậm trễ có thể làm mất đi những cơ hội thuận lợi
hoặc gây ra những tổn thất lớn cho người dân, doanh nghiệp.
Xu hướng vận hành của các Chính phủ là
phát triển các quan hệ đối tác, hợp tác. Cùng với sự biến chuyển của đời sống
xã hội, Chính phủ ở các quốc gia đều phải đối diện với những vấn đề phát sinh,
nhất là về y tế, môi trường, việc làm, an toàn cá nhân, trật tự xã hội… Những vấn
đề này đòi hỏi sự hợp tác với các cơ quan chức năng và các thành phần khác
trong xã hội.
Theo tinh thần đơn giản, tiết kiệm,
nhanh chóng, kịp thời, bình đẳng, cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải
quyết TTHC đã được hình thành, lấy sự hài lòng của tổ chức, cá nhân là thước đo
chất lượng và hiệu quả phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Ngày
27/3/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 468/QĐ-TTg về phê duyệt
Đề án đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết
thủ tục hành chính. Mục tiêu của Đề án nhằm đổi mới việc thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo hướng không phụ thuộc vào
địa giới hành chính, gắn với số hóa và sử dụng kết quả số hóa hồ sơ, giấy tờ,
kết quả giải quyết TTHC nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, tăng năng suất lao
động, góp phần hình thành công dân số, doanh nghiệp số trong xây dựng chính phủ
số, nền kinh tế số, xã hội số.
Nội dung đổi mới thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC là gắn kết việc số hóa hồ sơ,
giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC với quá trình tiếp nhận, xử lý TTHC tại bộ
phận một cửa, tạo cơ sở hình thành dữ liệu đầy đủ và chính xác; đổi mới tổ chức
quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ việc đơn giản hóa trong chuẩn bị,
tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; mở
rộng việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa
giới hành chính trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện cơ chế
một cửa, một cửa liên thông; nâng cao tính chủ động với việc đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác của bộ phận một cửa; đổi mới việc giám sát, đánh giá chất
lượng giải quyết TTHC theo thời gian thực trên cơ sở ứng dụng công nghệ mới.
Trong nhiều năm trở lại đây, bộ máy hành
chính ở một số quốc gia trên thế giới đã thay đổi theo hướng nghiên cứu, áp
dụng phương thức quản lý, giá trị quản trị từ khu vực tư sang khu vực công, xác
định người dân là khách hàng của cơ quan hành chính. Cải cách TTHC kết hợp với
cải cách công vụ đã nỗ lực tạo sự chuyển biến về nhận thức, thái độ của công
chức trong giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp. Cùng với việc tiếp
nhận và vận dụng phương thức đánh giá hoạt động thông qua kết quả, khuyến khích
tính chủ động của công chức, các quy định cứng nhắc, phức tạp trong các quy
trình xử lý công việc đã được loại bỏ.
Mặt khác, thực hiện TTHC là nơi thể hiện
rõ trách nhiệm công vụ, kể cả ở dạng chủ động hay bị động. Chủ động, linh hoạt
và sáng tạo là yêu cầu trong thực hiện nhiệm vụ nói chung và cần được khuyến
khích trong cung cấp dịch vụ công với số TTHC đa dạng. Chủ động nghiên cứu quy
trình thực hiện công việc, áp dụng TTHC không theo một khuôn mẫu cứng nhắc, ứng
phó linh hoạt tùy theo tình huống để thuận lợi cho người thụ hưởng, tận dụng tối
đa cơ hội để rút ngắn thời gian, có giải pháp xử lý ngay vấn đề phát sinh… là
những biểu hiện của trách nhiệm công vụ và trách nhiệm xã hội trong thực hiện
TTHC.
Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện
cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính đã quy
định rõ những hành vi không được làm của cán bộ, công chức, viên chức trong
giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông như: cửa quyền, sách
nhiễu, gây phiền hà, khó khăn cho tổ chức, cá nhân thực hiện TTHC; cản trở tổ chức,
cá nhân lựa chọn hình thức nộp hồ sơ, nhận, trả kết quả giải quyết TTHC theo
quy định của pháp luật; cản trở hoặc ngăn chặn trái phép quá trình truyền, gửi,
nhận dữ liệu điện tử; thay đổi, xóa, hủy, giả mạo, sao chép, di chuyển trái
phép một phần hoặc toàn bộ nội dung dữ liệu thực hiện TTHC; tiết lộ thông tin
về hồ sơ, tài liệu và các thông tin liên quan đến bí mật của tổ chức, cá nhân
hoặc sử dụng thông tin đó để trục lợi; từ chối thực hiện, kéo dài thời gian
giải quyết TTHC hoặc tự ý yêu cầu bổ sung hồ sơ, giấy tờ ngoài quy định của
pháp luật; trực tiếp giao dịch, yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ
sơ không thông qua Bộ phận một cửa, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
đùn đẩy trách nhiệm, thiếu hợp tác, thiếu công bằng, không khách quan, không
đúng pháp luật trong quá trình giải quyết TTHC; ứng xử, giao tiếp không phù hợp
với quy chế văn hóa công sở.
Nghị định số 19/2020/NĐ-CP về kiểm tra,
xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã quy định
rõ các hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính như
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản của người vi
phạm; kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính; ban hành trái thẩm
quyền văn bản quy định về hành vi vi phạm hành chính, về thẩm quyền, thủ tục,
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước và biện pháp xử lý hành chính.
Bên cạnh đó, văn hóa công vụ là yếu tố
quyết định để hiện thực hóa các mục tiêu cải cách công vụ, duy trì và phát
triển những thành tựu của cải cách hành chính nói chung. Có nhận định rằng, đối
với Việt Nam, cải cách hành chính cần được tiếp cận trên phương diện văn hóa,
bởi lẽ phát triển văn hóa công vụ vẫn là một dư địa quan trọng, chưa thực sự
được sử dụng đầy đủ và hiệu quả. Để chuyển tải những giá trị của văn hóa công
vụ vào thực tiễn hoạt động công vụ như tính trách nhiệm, phục vụ, công bằng,
chuyên nghiệp, các chuẩn mực đạo đức, cần các giải pháp đa dạng như pháp lý,
hành chính, tổ chức… Về giải pháp nâng cao đạo đức công vụ, có ý kiến đề xuất
“hình thành pháp luật về đạo đức công chức thực thi công vụ hay cần có một luật
về công chức - công vụ”.
Trong tham luận gửi tới Hội nghị Văn hóa
toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng,
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà đã nêu: tiếp tục hoàn thiện và tổ chức
thực hiện tốt các văn bản quy định về văn hóa công vụ trong các cơ quan nhà
nước. Nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện quy định về văn hóa công vụ trong Luật Cán
bộ, công chức và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm phù hợp với yêu cầu của
bối cảnh tình hình mới. Đồng thời, các bộ, ngành và địa phương cần rà soát, sửa
đổi các quy định liên quan đến văn hóa công vụ trong phạm vi thẩm quyền để
triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đặc thù của cơ quan, tổ
chức, của ngành, lĩnh vực, địa phương mình; góp phần đưa những quy định về văn
hóa công vụ được triển khai đồng bộ, có hiệu quả trong thực tế đời sống hoạt
động công vụ từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện văn hóa công vụ và kiên quyết xử lý nghiêm, kịp thời các
hành vi vi phạm.
Bên cạnh các biện pháp đã được triển
khai, như xác định tiêu chuẩn công chức, viên chức, xác định và mô tả rõ vị trí
việc làm, đổi mới trong thi tuyển và nâng ngạch, hạng công chức, viên chức,
chuyển đổi vị trí công tác, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá việc thực thi nhiệm
vụ... thì nâng cao đạo đức, văn hóa công vụ là biện pháp thiết thực thúc đẩy những
dự định cải cách được xây dựng dựa trên cơ sở nhận diện rõ nguyên nhân cản trở
tiến trình cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính.
TS. Hoàng Thị Ngân, nguyên
Vụ trưởng Vụ Tổ chức hành chính nhà nước và công vụ, Văn phòng Chính phủ
Nguồn: tcnn.vn